71.
VÀO CHÚA CỦA TA NGƯỜI KHÔNG TIN
Vào
Chúa của ta Người không tin cho lắm
Ơi
nước Nga, Tổ quốc của tôi ơi!
Người
như phù thuỷ đo miền xa thẳm
Còn
ta như đứa con ghẻ của Người.
Người
chiến sỹ đã quên lòng dũng cảm
Nhà
tiên tri già yếu, trở thành mù.
Hãy
đưa ta nắm bàn tay nguội lạnh
Trên
lối mòn duy nhất hãy theo ta.
Hãy
theo ta, công chúa còn ngái ngủ
Đến
lòng tin, vui và chỉ một mà thôi
Nơi
ánh lên niềm vui thời thượng cổ
Đức
Chúa Trời hiện trong bụi mận gai.
Đừng
cúi đầu trên ngực ai hùng mạnh
Và
chớ sợ gì giấc mộng tiên tri.
Người
hãy trở thành mẹ hiền cam đảm
Trong
ngày vô cùng nguy hại của ta.
1916
Не в моего ты Бога
верила
Не в моего ты Бога
верила,
Россия, родина моя!
Ты как колдунья дали
мерила,
И был как пасынок твой
я.
Боец забыл отвагу
смелую,
Пророк одрях и стал
слепой.
О, дай мне руку
охладелую —
Идти единою тропой.
Пойдем, пойдем, царевна
сонная,
К веселой вере и одной,
Где светит радость
испоконная
Неопалимой купиной.
Не клонь главы на грудь
могутную
И не пугайся вещим сном.
О, будь мне матерью
напутною
В моем паденье роковом.
1916
72.
TRONG NHÀ THỜ MÀU XANH
Sau
ngọn đồi, trong nhà thờ màu xanh
Nơi
trong vườn vẫn buông hàng liễu rủ
Tôi
thì thầm những lời khẽ tạ ơn
Những
năm tháng của mùa xuân trẻ.
Còn
ngươi đứng, gương mặt ngươi cúi xuống
Trước
mặt tôi rất kín đáo, âm thầm
Tơ
óng mượt của hàng mi buông thõng
Và
đang lắc lư đôi cánh thiên thần.
Số
phận trắng không làm cho tê tái
Thời
gian xưa đã đông cứng của ngươi
Vẫn
bàn tay sạm đen đang thắt lại
Chiếc
khăn hồng của ngày tháng xa xôi.
Vẫn
như thế, hơi thở sâu dồn nén
Đôi
vai gầy còm cõi của ngươi
Về
những kẻ đang sống bên kia biển
Và
những ai đang sống ở xứ người.
Và
kỷ niệm của những ngày buồn tẻ
Trước
dung nhan mực thước của cuộc đời.
Xin
hãy cầu, hãy cầu nguyện cho tôi
Đứa
trẻ vô gia cư trên quê mẹ!
1916
В зелёной церкви за
горой
В зелёной церкви за
горой,
Где вербы чётки уронили,
Я поминаю просфорой
Младой весны младые
были.
А ты, склонившаяся ниц,
Передо мной стоишь
незримо,
Шелка опущенных ресниц
Колышут крылья херувима.
Не омрачён твой белый
рок
Твоей застывшею порою,
Всё тот же розовый
платок
Затянут смуглою рукою.
Всё тот же вздох упруго
жмёт
Твои надломленные плечи
О том, кто за морем
живёт
И кто от родины далече.
И всё тягуче память дня
Перед пристойным ликом
жизни.
О, помолись и за меня,
За
бесприютного в отчизне.
1916
73.
LẠI TRẢI RA HÌNH HOA VĂN
Bây
giờ lại trải ra hình hoa văn
Trên
đồng trắng hiện lên màu thắm đỏ.
Và
đây đó vang lên râm ran
Tiếng
lục lạc ở phía ngoài thành phố.
Em
hiện ra sau làn khói mơ màng
Với
vẻ đẹp của một thời thiếu nữ
Và
ngọn gió vỗ nhẹ dưới chiếc khăn
Bím
tóc em có màu hung hung đỏ.
Bờ
lông mi như chia ra và nhảy
Khi
ngoi lên khi lại biến mất tăm
Không
đắm đuối, không say mê, không vẫy
Ống
tay áo đầy trang điểm của em.
Từ
rất lâu anh đã ước ao
Về
cánh đồng cây mâm xôi rộng lớn
Cho
em là gian phòng nhỏ trên cao
Còn
cho anh - ngôi nhà tu xa thẳm.
Mơ
nơi màu xanh trải giữa tầng không
Và
đám mây nhẹ nhàng màu trắng.
Anh
là người chồng ngoan ngoãn, dịu dàng
Còn
em - người vợ giang hồ, phóng đãng.
Anh
biết rằng cả em và cả anh
Sẽ
trở nên buồn rầu trong lặng lẽ
Anh
về em - trong dày đặc màn sương
Còn
em hãy nhớ khóc về anh nhé.
Nhưng
hiểu ra rằng anh chẳng nhận về
Chẳng
bề sâu, chẳng vuốt ve dịu ngọt
Đôi
mắt này giờ đã nhận ra
Và
đã say mê một miền đất khác.
1916
Опять раскинулся узорно
Опять раскинулся узорно
Над белым полем
багрянец,
И заливается задорно
Нижегородский бубенец.
Под затуманенною дымкой
Ты кажешь девичью красу,
И треплет ветер под
косынкой
Рыжеволосую косу.
Дуга, раскалываясь,
пляшет,
То выныряя, то пропав,
Не заворожит, не обмашет
Твой разукрашенный
рукав.
Уже давно мне стала
сниться
Полей малиновая ширь,
Тебе — высокая светлица,
А мне — далекий
монастырь.
Там синь и полымя
воздушней
И легкодымней пелена.
Я буду ласковый послушник,
А ты — разгульная жена.
И знаю я, мы оба станем
Грустить в упругой
тишине:
Я по тебе — в глухом
тумане,
А ты заплачешь обо мне.
Но и познав, я не
приемлю
Ни тихих ласк, ни
глубины.
Глаза, увидевшие землю,
В иную землю влюблены.
1916
74.
BẦU TRỜI ĐƯỢC TRÁT BẰNG KEM SỮA
Bầu
trời được trát bằng kem sữa
Còn
trăng như một mẩu phó mát con
Chỉ
không phải với đồ ăn gắn bó
Mà
con tim, đau đớn một góc lòng.
Ta
muốn ăn chăng, ồ đâu phải
Có
điều gì nhưng nhức dưới chân răng.
Một
điều gì sáng và vui ta đợi
Như
số phận trẻ trung.
Những
ao ước cứ tỉ tê, dằn vặt
Càng
nhân lên đau đớn cõi lòng ta
Nhưng
trên quan tài cho ta sẽ đặt
Bình
kvác và một chiếc bàn thờ.
1916
Небо сметаной обмазано
Небо сметаной обмазано,
Месяц как сырный кусок.
Только не с пищею связано
Сердце, больной уголок.
Хочется есть, да не
этого,
Что так шуршит на зубу.
Жду я веселого,
светлого,
Как молодую судьбу.
Жгуче желания множат
Душу больную мою,
Но и на гроб мне положат
С
квасом крутую кутью.
1916
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét