Thứ Năm, 27 tháng 9, 2018

Vào Chúa của ta Người không tin


71. VÀO CHÚA CỦA TA NGƯỜI KHÔNG TIN

Vào Chúa của ta Người không tin cho lắm
Ơi nước Nga, Tổ quốc của tôi ơi!
Người như phù thuỷ đo miền xa thẳm
Còn ta như đứa con ghẻ của Người.

Người chiến sỹ đã quên lòng dũng cảm
Nhà tiên tri già yếu, trở thành mù.
Hãy đưa ta nắm bàn tay nguội lạnh
Trên lối mòn duy nhất hãy theo ta.

Hãy theo ta, công chúa còn ngái ngủ
Đến lòng tin, vui và chỉ một mà thôi
Nơi ánh lên niềm vui thời thượng cổ
Đức Chúa Trời hiện trong bụi mận gai.

Đừng cúi đầu trên ngực ai hùng mạnh
Và chớ sợ gì giấc mộng tiên tri.
Người hãy trở thành mẹ hiền cam đảm
Trong ngày vô cùng nguy hại của ta.
1916

Не в моего ты Бога верила

Не в моего ты Бога верила,
Россия, родина моя!
Ты как колдунья дали мерила,
И был как пасынок твой я.

Боец забыл отвагу смелую,
Пророк одрях и стал слепой.
О, дай мне руку охладелую —
Идти единою тропой.

Пойдем, пойдем, царевна сонная,
К веселой вере и одной,
Где светит радость испоконная
Неопалимой купиной.

Не клонь главы на грудь могутную
И не пугайся вещим сном.
О, будь мне матерью напутною
В моем паденье роковом.
1916
   

72. TRONG NHÀ THỜ MÀU XANH

Sau ngọn đồi, trong nhà thờ màu xanh
Nơi trong vườn vẫn buông hàng liễu rủ
Tôi thì thầm những lời khẽ tạ ơn
Những năm tháng của mùa xuân trẻ.

Còn ngươi đứng, gương mặt ngươi cúi xuống
Trước mặt tôi rất kín đáo, âm thầm
Tơ óng mượt của hàng mi buông thõng
Và đang lắc lư đôi cánh thiên thần.

Số phận trắng không làm cho tê tái
Thời gian xưa đã đông cứng của ngươi
Vẫn bàn tay sạm đen đang thắt lại
Chiếc khăn hồng của ngày tháng xa xôi.

Vẫn như thế, hơi thở sâu dồn nén
Đôi vai gầy còm cõi của ngươi
Về những kẻ đang sống bên kia biển
Và những ai đang sống ở xứ người.

Và kỷ niệm của những ngày buồn tẻ
Trước dung nhan mực thước của cuộc đời.
Xin hãy cầu, hãy cầu nguyện cho tôi
Đứa trẻ vô gia cư trên quê mẹ!
1916

В зелёной церкви за горой

В зелёной церкви за горой,
Где вербы чётки уронили,
Я поминаю просфорой
Младой весны младые были.

А ты, склонившаяся ниц,
Передо мной стоишь незримо,
Шелка опущенных ресниц
Колышут крылья херувима.

Не омрачён твой белый рок
Твоей застывшею порою,
Всё тот же розовый платок
Затянут смуглою рукою.

Всё тот же вздох упруго жмёт
Твои надломленные плечи
О том, кто за морем живёт
И кто от родины далече.

И всё тягуче память дня
Перед пристойным ликом жизни.
О, помолись и за меня,
За бесприютного в отчизне.
1916
  

73. LẠI TRẢI RA HÌNH HOA VĂN

Bây giờ lại trải ra hình hoa văn
Trên đồng trắng hiện lên màu thắm đỏ.
Và đây đó vang lên râm ran
Tiếng lục lạc ở phía ngoài thành phố.

Em hiện ra sau làn khói mơ màng
Với vẻ đẹp của một thời thiếu nữ
Và ngọn gió vỗ nhẹ dưới chiếc khăn
Bím tóc em có màu hung hung đỏ.

Bờ lông mi như chia ra và nhảy
Khi ngoi lên khi lại biến mất tăm
Không đắm đuối, không say mê, không vẫy
Ống tay áo đầy trang điểm của em.

Từ rất lâu anh đã ước ao
Về cánh đồng cây mâm xôi rộng lớn
Cho em là gian phòng nhỏ trên cao
Còn cho anh - ngôi nhà tu xa thẳm.

Mơ nơi màu xanh trải giữa tầng không
Và đám mây nhẹ nhàng màu trắng.
Anh là người chồng ngoan ngoãn, dịu dàng
Còn em - người vợ giang hồ, phóng đãng.

Anh biết rằng cả em và cả anh
Sẽ trở nên buồn rầu trong lặng lẽ
Anh về em - trong dày đặc màn sương
Còn em hãy nhớ khóc về anh nhé.

Nhưng hiểu ra rằng anh chẳng nhận về
Chẳng bề sâu, chẳng vuốt ve dịu ngọt
Đôi mắt này giờ đã nhận ra
Và đã say mê một miền đất khác.
1916

Опять раскинулся узорно

Опять раскинулся узорно
Над белым полем багрянец,
И заливается задорно
Нижегородский бубенец.

Под затуманенною дымкой
Ты кажешь девичью красу,
И треплет ветер под косынкой
Рыжеволосую косу.

Дуга, раскалываясь, пляшет,
То выныряя, то пропав,
Не заворожит, не обмашет
Твой разукрашенный рукав.

Уже давно мне стала сниться
Полей малиновая ширь,
Тебе — высокая светлица,
А мне — далекий монастырь.

Там синь и полымя воздушней
И легкодымней пелена.
Я буду ласковый послушник,
А ты — разгульная жена.

И знаю я, мы оба станем
Грустить в упругой тишине:
Я по тебе — в глухом тумане,
А ты заплачешь обо мне.

Но и познав, я не приемлю
Ни тихих ласк, ни глубины.
Глаза, увидевшие землю,
В иную землю влюблены.
1916
   

74. BẦU TRỜI ĐƯỢC TRÁT BẰNG KEM SỮA

Bầu trời được trát bằng kem sữa
Còn trăng như một mẩu phó mát con
Chỉ không phải với đồ ăn gắn bó
Mà con tim, đau đớn một góc lòng.

Ta muốn ăn chăng, ồ đâu phải
Có điều gì nhưng nhức dưới chân răng.
Một điều gì sáng và vui ta đợi
Như số phận trẻ trung.

Những ao ước cứ tỉ tê, dằn vặt
Càng nhân lên đau đớn cõi lòng ta
Nhưng trên quan tài cho ta sẽ đặt
Bình kvác và một chiếc bàn thờ.
1916

Небо сметаной обмазано

Небо сметаной обмазано,
Месяц как сырный кусок.
Только не с пищею связано
Сердце, больной уголок.

Хочется есть, да не этого,
Что так шуршит на зубу.
Жду я веселого, светлого,
Как молодую судьбу.

Жгуче желания множат
Душу больную мою,
Но и на гроб мне положат
С квасом крутую кутью.
1916

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét