Thứ Năm, 27 tháng 9, 2018

Thơ ESENIN - Thư gửi mẹ


117. NHỮNG TIẾNG BUỒN THƯƠNG

Đem ra điều khuyên ngăn khu rừng úa
Bằng lời vui, bằng ngôn ngữ bạch dương
Và đàn sếu bay ngang qua buồn bã
Không bao giờ còn một chút tiếc thương.

Thương cho ai? Ta chỉ người du lịch
Đi qua cuộc đời, bỏ lại ngôi nhà.
Bụi gai dầu mơ những người đã chết
Với trăng tròn vành vạnh chốn đầm xa.

Tôi một mình giữa cánh đồng trơ trọi
Ngọn gió mang những đàn sếu bay xa
Tôi nghĩ về tuổi thanh xuân sôi nổi
Nhưng không hề thương tiếc những ngày qua.

Tôi chẳng tiếc những tháng năm uổng phí
Chẳng hề thương thời gian tím trong đời.
Lửa thanh lương trà trong vườn cháy đỏ
Nhưng lửa này không thể ấm cho ai.

Lửa thanh lương trà cháy không hết cả
Cỏ hoa không gục xuống bởi màu vàng
Cây mùa thu lặng im trút lá
Cũng như tôi tuôn những tiếng buồn thương.

Và nếu như thời gian bằng ngọn gió
Dồn tất cả vào một đống chẳng ai cần…
Xin hãy nói… làm sao cho rừng úa
Khuyên ngăn bằng ngôn ngữ thật dễ thương.
1924

Отговорила роща золотая

Отговорила роща золотая
Березовым, веселым языком,
И журавли, печально пролетая,
Уж не жалеют больше ни о ком.

Кого жалеть? Ведь каждый в мире странник —
Пройдет, зайдет и вновь оставит дом.
О всех ушедших грезит коноплянник
С широким месяцем над голубым прудом.

Стою один среди равнины голой,
А журавлей относит ветер в даль,
Я полон дум о юности веселой,
Но ничего в прошедшем мне не жаль.

Не жаль мне лет, растраченных напрасно,
Не жаль души сиреневую цветь.
В саду горит костер рябины красной,
Но никого не может он согреть.

Не обгорят рябиновые кисти,
От желтизны не пропадет трава.
Как дерево роняет тихо листья,
Так я роняю грустные слова.

И если время, ветром разметая,
Сгребет их все в один ненужный ком…
Скажите так… что роща золотая
Отговорила милым языком.
1924


118. THƯ GỬI MẸ

Mẹ của con giờ đây còn mạnh khoẻ?
Mẹ kính yêu, cho con gửi lời chào
Xin hãy để trên ngôi nhà của mẹ
Toả ánh chiều trong nỗi nhớ nôn nao.

Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng
Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con
Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng
Trong chiếc áo len lạc mốt, cũ sờn.

Rằng mỗi khi qua làn khói lam chiều
Mẹ nhìn thấy chỉ một điều khủng khiếp
Có vẻ như trong một vụ đánh nhau
Có ai đấy đâm con bằng dao thép.

Chẳng sao đâu! Xin mẹ hãy yên lòng
Đấy tất cả chỉ là cơn mộng mị
Con đâu có còn đến nỗi lông bông
Để chết đi khi chẳng nhìn thấy mẹ.

Con bây giờ vẫn như thế, dễ thương
Chỉ ao ước một điều rất đơn giản
Sao cho thật mau thoát khỏi nỗi buồn
Để trở về ngôi nhà ta thấp vắng.

Con sẽ về khi hoa nở trên cành
Mang hơi thở mùa xuân quanh vườn tược
Chỉ có điều mẹ trong ánh bình minh
Đừng thức con như tám năm về trước.

Đừng thức dậy những giấc mơ đã tắt
Đừng khơi lên mộng ước đã không thành
Con là kẻ sớm chịu nhiều mất mát
Nếm trải nhiều mệt nhọc giữa ngày xanh.

Và đừng dạy con cầu nguyện. Không cần!
Thời ấu thơ chẳng quay về lần nữa.
Chỉ mẹ là niềm vui, niềm an ủi của con
Chỉ mẹ – đối với con là ánh hồng khôn tả.

Mẹ hãy quên đi những điều phiền muộn
Mẹ đừng buồn, đừng lo lắng về con
Đừng hay bước ra ngoài con đường vắng
Trong chiếc áo len lạc mốt, cũ sờn.
1924



Письмо матери

Ты жива еще, моя старушка?
Жив и я. Привет тебе, привет!
Пусть струится над твоей избушкой
Тот вечерний несказанный свет.

Пишут мне, что ты, тая тревогу,
Загрустила шибко обо мне,
Что ты часто ходишь на дорогу
В старомодном ветхом шушуне.

И тебе в вечернем синем мраке
Часто видится одно и то ж:
Будто кто-то мне в кабацкой драке
Саданул под сердце финский нож.

Ничего, родная! Успокойся.
Это только тягостная бредь.
Не такой уж горький я пропойца,
Чтоб, тебя не видя, умереть.

Я по-прежнему такой же нежный
И мечтаю только лишь о том,
Чтоб скорее от тоски мятежной
Воротиться в низенький наш дом.

Я вернусь, когда раскинет ветви
По-весеннему наш белый сад.
Только ты меня уж на рассвете
Не буди, как восемь лет назад.

Не буди того, что отмечталось,
Не волнуй того, что не сбылось,—
Слишком раннюю утрату и усталость
Испытать мне в жизни привелось.

И молиться не учи меня. Не надо!
К старому возврата больше нет.
Ты одна мне помощь и отрада,
Ты одна мне несказанный свет.

Так забудь же про свою тревогу,
Не грусти так шибко обо мне.
Не ходи так часто на дорогу
В старомодном ветхом шушуне.
1924



Tập thơ "Những mô-típ Ba Tư" đánh số từ 119 đến 133 xếp ở cuối cùng. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét