Thứ Năm, 27 tháng 9, 2018

Hát thương cho những bàn tay


99. HÁT THƯƠNG CHO NHỮNG BÀN TAY

Hãy hát lên. Trên cây đàn nguyền rủa
Những ngón tay lượn múa nửa vòng cung
Trong cơn say này dường như nghẹn thở
Bạn thân yêu ơi, người bạn cuối cùng.

Đ
ừng nhìn sang đôi bàn tay ngà ngọc
Và bờ vai, suối tóc mượt như tơ
Tôi đi kiếm đây niềm hạnh phúc
Lại tìm ra cái chết, thật không ngờ!

Tôi đâu biết tình yêumầm bệnh hoạn
Đâ
u biết rằng tình yêubệnh kinh niên
Tình đến gần nheo mắt nhìn du đãng
Tôi trở thành kẻ mất trí, cuồng điên.

Hãy hát lên. Gợi cho lòng tôi khóc
Buổi ban đầu tha thiết những ngày qua
Thôi giờ đ người ta hôn kẻ khác
Người ta xinh sao lòng dạ xấu xa.

Khoan hãy gượm. Tôi ơi đừng nguyền rủa
Hãy bình tâm. Xin chớ qư trách người
Hãy đ cho tôi hát về mình nhé
Dưới dây trầm tôi hát khúc bi ai.

Tuổi thanh xuân vẫn tuôn chảy không ngừng
Chất trong tim những mối tình mãnh liệt
Biết bao nhiêu cô gái tôi đã nâng
Bao phụ nữ trong góc phòng đã riết.

Có đời một sự thật đắng cay
Tôi đã nhìn bằng con mắt thơ dại:
Xin xếp hàng lần lượt những đời trai
Mang sức lực của mình dâng cho gái.

Thì cớ gì tôi lại phải ghen tuông
Thì tại sao phải làm tôi đau đớn
Cuộc đời tanhững là chiếu với giường
Cuộc đời tanụ hôn vào vực thẳm.

Hãy hát lên những lời ca đau khổ
Thương những bàn tay bất hạnh đời ta
Chỉ sau khi nói những lời nguyền rủa...
Bạn thân yêu, tôi không chết bao giờ*.
1923
__________________
*
Trong cuộc đời của Esenin có rất nhiều người phụ nữ. Esenin không nói cụ thể như Puskin khi nhà thơ gọi Natalia Goncharova là mối tình thứ 113 của mình mà chỉ nói chung chung kiểu như: “Biết bao nhiêu cô gái tôi đã nâng/ Bao phụ nữ trong góc phòng đã riết…” hoặcTôi hạnh phúc đã hôn nhiều phụ nữ…”, “Tôi đã trở thành một gã Đông-Gioăngvv”. Ngoài tập thơ “Mối tình của tên du đãngEsenin đ tặng Avgusta Miklashevskaya thì những bài thơ viết về những người phụ nữ khác nhà thơ không chú thích. Nhưng qua nội dung bài thơ này hay cả trong trường caNgười đen”: “Gọi một người phụ nữ/ Tuổi trên bốn mươi gì đó/ Là cô bé cưng/ Và hư đốn của mình…” thì người ta đã đoán ra người phụ nữ này là Isadora Duncan. “Isadora Duncan (1877-1927) – nữ nghệ sĩ múa, biên đạo, nhà cải cách ba lê Hoa Kỳ. Là một trong những người đặt nền móng cho vũ đạo hiện đại<……> Là người đầu tiên lấy phần nhạc của bài Quốc tế ca đ soạn ra phần múa. Duncan chủ trương đưa múa vào giảng dạy tại nhà trường, mở ra một trường phái múa mới (Xem: Đuncan. Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập1). Duncan là một phụ nữ nổi tiếng, một thời là vợ của nhà thơ. Hôn nhân giữa Esenin và Duncan là một mẫu mực của những cuộc tình không biên giới. Duncan ngoài tiếng mẹ đ (tiếng Mỹ) còn nói thạo tiếng Pháp, tiếng Đức nhưng chỉ biết một vài câu tiếng Nga thông dụng. Còn Esenin ngoài tiếng mẹ đ (tiếng Nga) không biết một ngoại ngữ nào nhưng hai người vẫn hoàn toàn hiểu nhau. Họ từng đi du lịch khắp châu Âu và Bắc Mỹ cả năm trời. Và những cái chết bí ẩn của họ cũng khiến cho người đời không thể không suy nghĩ. Esenin tự tử tháng 12 năm 1925 Leningrad (nước Nga), theo giả thiết chính thức, là đã thắt cổ bằng caravát còn Duncan hai năm sau chết nước Pháp trong một tai nạn ôtô. Chiếc khăn quàng tung bay trong gió của cô dường như có một bàn tay vô hình đem quấn vào bánh xe làm cho cô chết vì bị thắt cổ. Một cái chết đau thương nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Câu nói cuối cùng: “Vĩnh biệt bạn bè, tôi về với vinh quang!” 


Пой же, пой. На проклятой гитаре

Пой же, пой. На проклятой гитаре
Пальцы пляшут твои вполукруг.
Захлебнуться бы в этом угаре,
Мой последний, единственный друг.

Не гляди на ее запястья
И с плечей ее льющийся шелк.
Я искал в этой женщине счастья,
А нечаянно гибель нашел.

Я не знал, что любовь - зараза,
Я не знал, что любовь - чума.
Подошла и прищуренным глазом
Хулигана свела с ума.

Пой, мой друг. Навевай мне снова
Нашу прежнюю буйную рань.
Пусть целует она другова,
Молодая, красивая дрянь.

Ах, постой. Я ее не ругаю.
Ах, постой. Я ее не кляну.
Дай тебе про себя я сыграю
Под басовую эту струну.

Льется дней моих розовый купол.
В сердце снов золотых сума.
Много девушек я перещупал,
Много женщин в углу прижимал.

Да! есть горькая правда земли,
Подсмотрел я ребяческим оком:
Лижут в очередь кобели
Истекающую суку соком.

Так чего ж мне ее ревновать.
Так чего ж мне болеть такому.
Наша жизнь - простыня да кровать.
Наша жизнь - поцелуй да в омут.

Пой же, пой! В роковом размахе
Этих рук роковая беда.
Только знаешь, пошли их на хер...
Не умру я, мой друг, никогда.
1923


100. CHIA TAY VỚI MARIENGOF

Có hạnh phúc mãnh liệt trong tình bạn
Và trong lòng cơn co giật cuồng điên
Thân xác tôi bị ngọn lửa đốt lên
Như một cây nến trắng.

Người dấu yêu! Hãy đưa tay tôi bắt
Bởi một điều, cách khác, chẳng hề quen
Tôi muốn trong phút giây này ly biệt
Rửa mái đầu bằng thứ bọt màu vàng.

Tô-li-a, Tô-li-a, có phải anh
Đã
bao lần, đã bao khoảnh khắc
Bây giờ lại, như sữa kia, đông đặc
Quanh quầng mắt không nhúc nhích, đứng yên.

Dưới trăng này tôi và anh tạm biệt
Đ
ợi đến ngày vui, liệu có còn không?
Giữa những người nổi tiếng và trẻ trung
Đ
ối với tôi, anh là người tốt nhất.

Rồi một năm, một thời gian nào đó
Biết đâu ta còn gặp lại nữa mà…
Thật khủng khiếptrong hồn đang đi qua
Tựa hồ như tình yêu, như tuổi trẻ.

Rồi trong anh người khác sẽ thay tôi
Có phải thếnghe theo lời to nhỏ
Mà đôi tai của tôi nức nở
Như mái chèo vỗ óc ách trên vai?

Dưới trăng này tôi và anh tạm biệt
Một ngày vui với tôi sẽ không còn
Nhưng giữa những người rạo rực, trẻ trung
Đ
ối với tôi, anh là người tốt nhất.
1922

Прощание с Мариенгофом

Есть в дружбе счастье оголтелое
И судорога буйных чувств —
Огонь растапливает тело,
Как стеариновую свечу.

Возлюбленный мой! дай мне руки —
Я по-иному не привык, —
Хочу омыть их в час разлуки
Я желтой пеной головы.

Ах, Толя, Толя, ты ли, ты ли,
В который миг, в который раз —
Опять, как молоко, застыли
Круги недвижущихся глаз.

Прощай, прощай. В пожарах лунных
Дождусь ли радостного дня?
Среди прославленных и юных
Ты был всех лучше для меня.

В такой-то срок, в таком-то годе
Мы встретимся, быть может, вновь…
Мне страшно, — ведь душа проходит,
Как молодость и как любовь.

Другой в тебе меня заглушит.
Не потому ли — в лад речам —
Мои рыдающие уши,
Как весла, плещут по плечам?

Прощай, прощай. В пожарах лунных
Не зреть мне радостного дня,
Но все ж средь трепетных и юных
Ты был всех лучше для меня.
1922


101. NIỀM VUI SINH THÔ LỖ

Niềm vui sinh thô lỗ
Nỗi buồn sinh dịu dàng.
Tôi chẳng cần gì cả
Không một ai tôi thương.

Chỉ thương tôi chút xíu
Thương con chó không nhà.
Con đường này thẳng ra
Dẫn tôi vào quán rượu.

Những con quỉ, chửi gì?
Hay tôi người xứ khác?
Vì chén rượu mà ta
Đ
ặt những chiếc quần cộc.

Tôi nhìn ra cửa sổ
Trong tim oi và buồn.
Hãy biến đi đường phố
Vào mặt trời xa xăm.

Trên đường cậu bé con.
Nóng, khô bầu không khí.
Cậu bé sướng vô cùng
Cậu đang ngồi ngoáy mũi.

Cứ ngoáy đi, cậu bé
Đưa cả ngón tay luôn
Nhưng mà mạnh như thế
Đừng chui vào trong hồn.

Tôi nhút nhát, rụt rè
Nhìn vào, be một dãy!
Tôi gom những nút be
Đem hồn tôi bịt lại.
1923

 Грубым дается радость

Грубым дается радость,
Нежным дается печаль.
Мне ничего не надо,
Мне никого не жаль.

Жаль мне себя немного,
Жалко бездомных собак.
Эта прямая дорога
Меня привела в кабак.

Что ж вы ругаетесь, дьяволы?
Иль я не сын страны?
Каждый из нас закладывал
За рюмку свои штаны.

Мутно гляжу на окна,
В сердце тоска и зной.
Катится, в солнце измокнув,
Улица передо мной.

А на улице мальчик сопливый.
Воздух поджарен и сух.
Мальчик такой счастливый
И ковыряет в носу.

Ковыряй, ковыряй, мой милый,
Суй туда палец весь,
Только вот с эфтой силой
В душу свою не лезь.

Я уж готов… Я робкий…
Глянь на бутылок рать!
Я собираю пробки —
Душу мою затыкать.
1923


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét