Thứ Năm, 27 tháng 9, 2018

Nước Nga yêu dấu


40. NƯỚC NGA YÊU DẤU

Ô
i nước Nga yêu dấu của tôi ơi
Nhà gỗ thông của Người mang tượng Chúa
Một màu xanh tít tắp tận chân trời
Cho đôi mắt được ngắm nhìn thuê thỏa.

Giống như kẻ hành hương mùa trẩy hội
Tôi ngắm nhìn đồng ruộng của nước Nga
Bên bờ giậu quanh làng thấp te tái
Những cây dương gầy guộc vẫn vui đùa.

Hương táo chín và mật thơm lan tỏa
Trong nhà thờ ca tụng Đức Chúa Trời
Có tiếng kêu vù vù sau làng nhỏ
Rồi trên đồng là điệu nhảy vui tươi.

Tôi chạy theo lối mòn hoa cỏ nát
Ra bao la đồng ruộng trải ngát xanh
Đó
n chào tôi - như vành khuyên lúc lắc
Là tiếng cười các cô gái vang lên.

Nếu thiên thần đồng thanh cất tiếng gọi:
Bỏ nước Nga lên sống thiên đường!”
Tôi sẽ nói: “Thiên đường tôi chẳng lấy
Hãy trao cho tôi tổ quốc yêu thương!”
1914

Гой ты, Русь, моя родная

Гой ты, Русь, моя родная,
Хаты — в ризах образа...
Не видать конца и края —
Только синь сосет глаза.

Как захожий богомолец,
Я смотрю твои поля.
А у низеньких околиц
Звонно чахнут тополя.

Пахнет яблоком и медом
По церквам твой кроткий Спас.
И гудит за корогодом
На лугах веселый пляс.

Побегу по мятой стежке
На приволь зеленых лех,
Мне навстречу, как сережки,
Прозвенит девичий смех.

Если крикнет рать святая:
«Кинь ты Русь, живи в раю!»
Я скажу: «Не надо рая,
Дайте родину мою».
1914

41. MIỀN QUÊ THÂN YÊU

Miền quê thân yêu! Con tim mơ ước
Làn nước xanh đầy ánh nắng mặt trời.
Tôi chỉ muốn giá mà tôi mất hút
Vào màu xanh khúc giao hưởng của ngưòi.

Trên bờ ruộng áo long bào được khoác
Mộc thảo hoa, cỏ ba lá mọc đầy
Đ
ứng thành chuỗi như thành tràng hạt
Liễu như những bà sư nữ dịu dàng thay.

Từ đầm nước toả ra làn khói
Như cái đòn triêng treo giữa trời xanh.
Tôi bí mật đ dành cho ai đấy
Giấu trong tim những ý nghĩ của mình.

Tôi chào đón, tôi nhận về tất cả
Hạnh phúc thay được trải hết lòng mình.
Tôi đi đến mặt đất này là đ
Sau đó rồi từ giã nó cho nhanh.
1914

Край любимый! Сердцу снятся

Край любимый! Сердцу снятся
Скирды солнца в водах лонных.
Я хотел бы затеряться
В зеленях твоих стозвонных.

По меже, на переметке,
Резеда и риза кашки.
И вызванивают в четки
Ивы - кроткие монашки.

Курит облаком болото,
Гарь в небесном коромысле.
С тихой тайной для кого-то
Затаил я в сердце мысли.

Все встречаю, все приемлю,
Рад и счастлив душу вынуть.
Я пришел на эту землю,
Чтоб скорей ее покинуть.
1914


42.
TRÊN CÁI ĐĨA BẦU TRỜI MÀU XANH

Trên cái đĩa bầu trời màu xanh
Làn khói mật của đám mây vàng úa.
Mọi người ngủ. Đêm cũng mơ màng
Chỉ mình tôi bị nỗi buồn hành hạ.

Những đám mây được đem làm dấu Thánh
Rừng thông thở ra làn khói ngọt ngào.
Sau vòng trời nứt ra vết rạn
Những ngón tay của sườn núi dăng cao.

Trên đầm nước tiếng diệc kêu quang quác
Tiếng nước kêu óc ách thật rõ rành
Từ đám mây đang nhìn, như giọt nước
Một ngôi sao cô đơn.

Tôi ước ao giá trong làn khói đục
Bằng ngôi sao đem đốt cháy khu rừng
Rồi với chúng giá mà tôi được chết
Như chớp nguồn vụt biến giữa không trung.
1913-1914

На небесном синем блюде

На небесном синем блюде
Желтых туч медовый дым.
Грезит ночь. Уснули люди,
Только я тоской томим.

Облаками перекрещен,
Сладкий дым вдыхает бор.
За кольцо небесных трещин
Тянет пальцы косогор.

На болоте крячет цапля;
Четко хлюпает вода,
А из туч глядит, как капля,
Одинокая звезда.

Я хотел бы в мутном дыме
Той звездой поджечь леса
И погинуть вместе с ними,
Как зарница в небеса.
1913-1914

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét