Thứ Năm, 27 tháng 9, 2018

Thơ ESENIN - Em ra đi


61. EM RA ĐI

Em ra đi rồi em chẳng quay về
Em đã quên góc phòng anh yên lặng
Và bây giờ em cười với người ta
Khoác trên vai tấm khăn quàng màu trắng.

Đ
anh buồn, anh tiếc thương, đau khổ
Ngọn lửa hồng trong lò sưởi phôi pha
Nhưng cành hoa tím ép trong quyển sổ
Lại cứ nhắc về hạnh phúc ngày xa.
1913-1915?

Ты ушла и ко мне не вернешься

Ты ушла и ко мне не вернешься,
Позабыла ты мой уголок
И теперь ты другому смеешься,
Укрываяся в белый платок.

Мне тоскливо, и скучно, и жалко,
Неуютно камин мой горит,
Но измятая в книжке фиалка
Все о счастье былом говорит.
1913—1915


62.
CHỈ CHO NGƯỜI

Chỉ cho Ngườimột vòng hoa ta kết
Và ta rắc hoa lên những lối mòn
Ô
i nước Ngamột góc yên, tĩnh mịch
Chỉ với Người ta tin tưởng, yêu thương.

Ta ngắm nhìn trời đất rộng mênh mông
Tất cả – gần cũng như xa – tất cả
Những lối nhỏ ta không hề xa lạ
Tiếng sếu gọi bầy gần gũi thân thương.

Mặt nước hồ trỗi dậy một màu xanh
Gọi hướng về một buổi chiều dằng dặc
Và trên bụi cây reo lên những giọt
Sương lạnh lùng và sương tốt lành.

Và dù cho gió xua đuổi màn sương
Mặc luồng gió cứ vẫy vùng đôi cánh
Nhưng tất cả như sân gác nghiêm trang
Của những đạo sĩ hành nghề bí ẩn.
1915

Тебе одной плету венок

Тебе одной плету венок,
Цветами сыплю стежку серую.
О Русь, покойный уголок,
Тебя люблю, тебе и верую.

Гляжу в простор твоих полей,
Ты вся - далекая и близкая.
Сродни мне посвист журавлей
И не чужда тропинка склизкая.

Цветет болотная купель,
Куга зовет к вечерне длительной,
И по кустам звенит капель
Росы холодной и целительной.

И хоть сгоняет твой туман
Поток ветров, крылато дующих,
Но вся ты - смирна и ливан
Волхвов, потайственно волхвующих.
1915

63. ÔI NƯỚC NGA

Cỗ xe ngựa đã bắt đầu lên tiếng
Chạy qua cánh đồng và những bụi cây
Lại nhìn thấy bên đường ngôi nhà nguyện
Và những cây Thánh giá nguyện hồn ai.

Giờ trong ngực một nỗi buồn đau đớn
Ngọn gió mang hơi lúa mạch từ xa
Tiếng chuông vang trên làn bụi trắng
Để bàn tay làm dấu Thánh tình cờ.

Ôi nước Nga – cánh đồng màu đỏ thẫm
Và màu xanh não nuột trên sông
Tôi yêu đến mừng vui, đau đớn
Hồ nước mênh mông thấm một nỗi buồn.

Nỗi đau xót lạnh lùng thì không thể
Đem ra đo nơi bờ bến sương mờ.
Nhưng không tin, không yêu Người như thế
Thì tôi không thể học được bao giờ.

Và không trao cho ai điều trói buộc
Không giã từ với giấc mộng dài lâu
Khi vang lên trên thảo nguyên thân thuộc
Lời nguyện cầu của những cây vũ mâu.
1916

Запели тесаные дроги

Запели тесаные дроги,
Бегут равнины и кусты.
Опять часовни на дороге
И поминальные кресты.

Опять я теплой грустью болен
От овсяного ветерка.
И на известку колоколен
Невольно крестится рука.

О Русь, малиновое поле
И синь, упавшая в реку,
Люблю до радости и боли
Твою озерную тоску.

Холодной скорби не измерить,
Ты на туманном берегу.
Но не любить тебя, не верить -
Я научиться не могу.

И не отдам я эти цепи
И не расстанусь с долгим сном,
Когда звенят родные степи
Молитвословным ковылем.
1916

64. BẦU TRỜI XANH VÀ VÒNG CUNG MÀU SÁNG

Bầu trời xanh và vòng cung màu sáng
Bờ thảo nguyên lặng lẽ chạy vòng quanh
Trên ngôi làng làn khói đang bay lượn
Đám cưới quạ khoang làm bờ giậu nhẹ nhàng.

Tôi lại nhìn thấy bờ dốc quen thuộc
Với màu đất sét đỏ, liễu hờ buông
Lúa kiều mạch mơ màng bên hồ nước
Thơm ngát mùi hoa cỏ với mật ong.

Quê hương tôi! Ôi nước Nga yêu mến
Người vẫn sống bằng sương khói ngụ ngôn.
Và nôn nao dưới đôi cánh thiên thần
Thập ác những mồ vô danh cầu nguyện.

Có nhiều người bằng vẻ mặt quê hương
Từng cháy lên, trong giếng lò ẩm ướt
Ai mạnh mẽ, ác tà, ai mơ ước
Ai nếm mùi cây trái của quê hương.

Chỉ tôi tin: sẽ không sống những người
Ai thôi yêu đinh ba và tù ngục…
Sự thật muôn đời và tiếng rừng xào xạc
Sau tiếng gông xiềng sẽ sưởi ấm lòng tôi.
1916

Синее небо, цветная дуга

Синее небо, цветная дуга,
Тихо степные бегут берега,
Тянется дым, у малиновых сел
Свадьба ворон облегла частокол.

Снова я вижу знакомый обрыв
С красною глиной и сучьями ив,
Грезит над озером рыжий овес,
Пахнет ромашкой и медом от ос.

Край мой! Любимая Русь и Мордва!
Притчею мглы ты, как прежде, жива.
Нежно под трепетом ангельских крыл
Звонят кресты безымянных могил.

Многих ты, родина, ликом своим
Жгла и томила по шахтам сырым.
Много мечтает их, сильных и злых,
Выкусить ягоды персей твоих.

Только я верю: не выжить тому,
Кто разлюбил твой острог и тюрьму...
Вечная правда и гомон лесов
Радуют душу под звон кандалов.
1916

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét